Khối u ác tính ở bộ phận thực quản. Tỉ lệ phát bệnh ở nam nhiều hơn nữ 2,07 lần, độ tuổi phần nhiều gặp ở 40 – 74 tuổi, dưới 30 tuổi ít gặp. Các triệu chứng tự giác bao gồm khi ăn có cảm giác nghẹn, có cảm giác có dị vật mắc trong thực quản, khó nuốt tăng dần, đau sau xương ức, nôn sau khi ăn, gầy rộc, thiếu máu,… nếu khối u chèn ép lên dây thần kinh thanh quản quặt ngược thì sẽ làm giọng khàn. Kiểm tra X-quang nuốt bari, sẽ thấy bari bị tắc lại trong thực đạo và bari chảy rất nhỏ, kiểm tra nội soi trong thực đạo và kiểm tra sinh thiết bệnh lí có thể chẩn đoán chính xác.
Sự phát bệnh ungthư thực quản có liên quan chặt chẽ với nhân tố dinh dưỡng. Các điều tra về dinh dưỡng ở những người bệnh ưng thư thực quản đều có kèm theo hiện tượng thiếu dinh dưỡng, các thức ăn từ động vật, rau tươi và trái cây trong bữa ăn tương đối ít, lượng protein đưa vào cũng ít, 90% thiếu vitamin B2, 70% người không đủ vitamin B6, đồng thời thiếu vitamin A, C và canxi ở những mức độ khác nhau.
Theo điều tra của các nước, thiếu dinh dưỡng và uống rượu quá nhiều là nhân tố gây nguy cơ chủ yếu dẫn đến ung thư thực quản.
Mức độ nguy hiểm của ung thư thực quản tương quan âm với lượng tiêu hao cá, thịt, trứng tươi, các chế phẩm sữa, rau tươi và trái cây. Chuyển hoá sinh hóa ở người bệnh khác thường, tác dụng dị sản trong chuyển hóa đường và mức tiêu hao năng lượng tăng lên, phân giải protein quá nhiều, xuất hiện gầy sút, thậm chí nôn ra chất lỏng, hàm lượng retinol (vitamin A), β – caroten, vitamin B6, vitamin C và các nguyên tố vi lượng như kẽm, sắt, molipđen, selen trong máu giảm, lượng vitamin B1, B2 thải ra trong nước tiểu giảm.
Biện pháp dinh dưỡng chủ yếu để phòng ngừa ung thư thực quản của người dân các vùng có tỉ lệ phát bệnh cao là: cơ cấu bữa ăn hợp lí, cung cấp chất dinh dưỡng cân đối, tăng lên một cách hợp lí. Lượng cung cấp protein trên cơ sở đảm bảo lượng cung cấp lạ thường về năng lượng, ăn nhiều cá, thịt trứng tươi, chế phẩm sữa, sữa đậu nành, chế phẩm đậu và rau tươi, trái cây, rau câu, táo đỏ,… ít ăn thức ăn chua, không ăn thức ăn mốc, lên men. Với những người có các biến chứng tiền ung thư như biểu mô niêm mạc thực quản tăng sinh không điển hình (tăng sinh dị hình), mỗi ngày nên uống 7,5mg vitamin A đương lượng retinol, vitamin B2 10mg, vitamin C 300mg, canxi 800mg, sắt 12mg, kẽm 30mg. Uống cho đến khi bệnh tình thuyên giảm, thì mới đổi sang chế độ ăn dự phòng nói trên.
Với những bệnh nhân cần tiến hành trị liệu bằng phẫu thuật, lượng nhu cầu về năng lượng mỗi ngày trước phẫu thuật là cân nặng lí tưởng (kg) x 210kJ (50kcal), lượng nhu cầu protein là cân nặng lí tưởng (kg) x 2g, đồng thời cần cung cấp tăng thêm vitamin A, B1, B2, B6, B12, C, canxi và các nguyên tố vi lượng sắt, kẽm, lượng này gấp 2 – 3 lần lượng cung cấp bình thường. Nên phối chế thành loại thức ăn được bệnh nhân ưa thích, để giúp ích cho việc thúc đẩy việc khôi phục trạng thái dinh dưỡng tốt cho cơ thể, tranh thủ phẫu thuật được ngay trong giai đoạn đầu, sau khi phẫu thuật cần tiếp tục căn cứ theo nhu cầu về chất dinh dưỡng nói trên, ăn các thức ăn lỏng hoặc sền sệt đồng thời phối hợp với truyền qua tĩnh mạch để bổ sung dinh dưỡng, rồi mới dần dần chuyển sang ăn các thức ăn mềm và chế độ ăn cân đối thông thường.
Vinh Nguyễn tổng hợp