Theo phân loại bệnh tật quốc tế lần thứ 10 (năm 1992), cơn thiếu máu não cục bộ tạm thời (CTMCBTT), có đặc điểm xuất hiện đột ngột, có triệu chứng thần kinh khu trú, tồn tại trong thời gian ngắn không quá 24 giờ, phục hồi triệu chứng hoàn toàn và có xu hướng lặp lại nhiều lần (tái phát). CTMNCBTT có ý nghĩa rất quan trọng vì nó là tiền đề báo trước một đột qụy nhồi máu não sẽ xảy ra.
Đột quỵ, hoặc tai biến mạch máu não, là tình trạng não bị tổn thương do bệnh của mạch máu não: Hoặc tắc mạch, hoặc vỡ mạch.
Khi mạch máu não bị tắc sẽ gây ra đột quỵ thiếu máu não, còn gọi là nhồi máu não.
Khi mạch máu não bị vỡ sẽ gây ra đột quỵ chảy máu não, còn gọi là xuất huyết não.
Mạch máu bị chít hẹp gây nhồi máu não.
Trong cơn thiếu máu não này chủ yếu là do bít tắc ở động mạch cảnh chung và động mạch cảnh trong bởi vữa xơ động mạch tạo nên cục nghẽn tiểu cầu, fibrin hay cholesterol tích tụ lớp nội mạch thành động mạch tách ra các mảnh nhỏ gây vi nghẽn tắc mạch tại các nhánh động mạch nhỏ hoặc do cục tắc canxi từ van tim.
Bình thường, đường kính của lòng động mạch cảnh trong có kích thước trung bình là 7,0mm. Khi đường kính này giảm do cục nghẽn tắc xuống từ 1-2mm sẽ dẫn tới sự biến đổi huyết động trong võng mạc và tuần hoàn não.
Từ các khu vực thiếu máu nuôi dưỡng đó phát sinh ra các triệu chứng của cơn TMNTT, phần lớn ở vỏ não của bán cầu đại não trái và ở võng mạc. Do đó trên lâm sàng chủ yếu là các rối loạn chức năng về mắt (võng mạc) và những triệu chứng do tổn thương của bán cầu đại não.
Những triệu chứng về võng mạc mắt của bệnh đột quỵ não
Mù một mắt thoảng qua là triệu chứng đặc hiệu, phổ biến nhất. Thường gặp là đột ngột bệnh nhân thấy mắt nhìn mờ, như qua lớp sương mù, rồi mất thị lực một mắt hay một phần của thị trường, kéo dài từ vài giây đến vài phút, sau cơn mắt lại nhìn được bình thường. Mù thoảng qua thường xuất hiện trước, hiếm thấy xảy ra đồng thời với triệu chứng khu trú thần kinh.
Những triệu chứng về não
Tùy theo động mạch não nuôi dưỡng từng vùng bán cầu đại não bị thiếu máu mà có những biểu hiện lâm sàng đặc trưng khác nhau: nếu thiếu máu ở bán cầu não trái sẽ xuất hiện: rối loạn ngôn ngữ hoặc mất ngôn ngữ vận động (phát âm), loạn phối hợp từ ngữ hoặc mất ngôn ngữ một phần. Thời gian rối loạn ngôn ngữ thường kéo dài 1 – 6 giờ.
Hiếm gặp mất ý thức; rối loạn tâm thần thường có biểu hiện trạng thái lo âu khi cơn TMNTT tái phát nhiều lần; liệt nửa người đối bên, không đồng đều giữa tay và chân, bàn tay, mặt thường nặng hơn chân. Có thể thấy tê ngón tay, tê mặt và môi. Đó là do thiếu máu ở khu vực não do động mạch não giữa nuôi dưỡng. Các triệu chứng trên có thể được hồi phục trở lại trong vài giờ, có khi tới 24 giờ sau mới hồi phục hoàn toàn; rối loạn cảm giác thường gặp là dị cảm nửa người kéo dài từ 1 – 6 giờ. Trường hợp liệt nửa người nặng thường kèm theo rối loạn cảm giác kết hợp cùng bên.
Cơn thiếu máu não cục bộ tạm thời ở hệ động mạch sống – nền
Biểu hiện lâm sàng của cơn TMNTT rất phức tạp, đa dạng, các biểu hiện lâm sàng của các vùng não bị thiếu máu sẽ xuất hiện, có khi đơn phương trước, lại có lúc xảy ra đồng thời, kết hợp hay xen kẽ nhau của các rối loạn huyết động, rối loạn thần kinh trung ương và cả hệ thần kinh thực vật.
Các triệu chứng chủ yếu của bệnh đột quỵ não
Rối loạn tiền đình và rối loạn thăng bằng.
– Chóng mặt: Bệnh nhân có cảm giác quay như bị đẩy sang một bên, bồng bềnh như ngồi thuyền. Các cơn này xuất hiện khi thay đổi tư thế đầu đột ngột, gập cổ, nghiêng đầu cổ về một bên, nhất là ngửa cổ quá mức. Đây là triệu chứng đặc hiệu quan trọng, thường gặp tới 80% trường hợp TMNTT.
– Đau đầu: Thường bệnh nhân có cảm giác căng, kéo, nảy như nhịp của mạch, khu trú ở vùng chẩm, hoặc chẩm – gáy. Trên 80% trường hợp TMNTT đau đầu xuất hiện sớm nhất.
– Rối loạn vận nhãn cầu và thị lực: Đây cũng là triệu chứng tương đối phổ biến, thường gặp tới khoảng 50% trường hợp. Bệnh nhân thấy nhìn mờ, như bóng tối, có khi mất thị lực hoàn toàn (mù vỏ não) trong một vài giờ. Nhìn đôi, lác mắt do tổn thương các dây thần kinh sọ não III, IV, VI. Trường hợp nặng có thể xuất hiện liệt nhìn sang một bên, liệt hội tụ nhãn cầu (hội chứng Parinaud). Còn có trường hợp bán manh, khuyết 1/4 thị trường.
– Rối loạn thính giác: Thường gặp là cảm giác có tiếng như ve kêu, ù ù như xay lúa, hay eng eng trong đầu. Có khi đột ngột ù cả hai tai, nghe tiếng động xa xăm, điếc hẳn một bên hay cả hai tai trong thời gian từ vài phút đến vài giờ.
– Cơn sụp đổ: Trong khi đứng hay đang đi, đột ngột thấy choáng váng hay chóng mặt, rồi rất nhanh sụp khuỵu gối xuống nhưng vẫn tỉnh táo nhận biết được những gì đã xảy ra. Sau đó lại vận động đi lại bình thường.
– Rối loạn vận động: Liệt nửa người ở các mức độ khác nhau, có kèm theo tổn thương dây thần kinh sọ não bên đối diện (hội chứng giao bên). Có thể liệt mặt (dây thần kinh sọ não số VII) trung ương và liệt nhẹ hai chân, có khi liệt tứ chi trong trường hợp tổn thương ở cầu não…
– Rối loạn cảm giác: Phần lớn là rối loạn cảm giác nông (đau, nóng, lạnh): giảm hoặc mất cảm giác nửa người (do tổn thương bó gai – thị). Rối loạn cảm giác chủ quan, biểu hiện cảm giác kim châm, kiến bò, nóng rát (dị cảm) ở một hay hai bên mặt (thiếu máu ở cầu não).
– Các triệu chứng hỗn hợp khác: Có một số trường hợp liệt họng – hầu, thanh quản kiểu trung ương, giảm sức co tứ chi (hội chứng giả hành não); giảm trí nhớ hiện tại, nhầm lẫn tạm thời, trầm cảm; giảm hoặc mất khả năng hoạt động sinh dục tạm thời, rối loạn nhịp tim do rối loạn thần kinh thực vật kiểu kết hợp; một số triệu chứng của rối loạn chức năng của tiểu não thường do cuống tiểu não dưới bị xâm phạm, như thiếu phối hợp vận động ở tay hoặc chân.
Vinh Nguyễn tổng hợp